• Phone: 0235.3851.429
  • Hotline: 19009095
  • Thông tin:

dieuhanhtructuyen

Tập san Y học

Bằng chứng về: Thai đến ngày sinh

  • PDF.

Bs Ngô Thị Thảo Vy - 

Thế nào là thai đủ tháng?

Trong nhiều năm, một đứa trẻ được xem là sinh đủ tháng nếu được sinh ra trong khoảng 37 tuần 0 ngày đến 41 tuần 6 ngày. Trẻ sinh ra trước 37 tuần 0 ngày là "sơ sinh non tháng" và sau 41 tuần 6 ngày là "sơ sinh già tháng"

thaidengay1

Tuy nhiên, thời gian sau, nghiên cứu bắt đầu chỉ ra rằng các vấn đề sức khỏe xảy ra phổ biến hơn ở một số khoảng thời gian nhất định trong thời điểm này. Đặc biệt, trẻ sơ sinh có nhiều nguy cơ tử vong hơn (dù nguy cơ chung vẫn rất thấp) nếu được sinh ra trước 39 tuần hoặc sau 41 tuần. Khả năng trẻ sơ sinh gặp vấn đề về sức khỏe thấp nhất nếu được sinh ra từ 39 tuần 0 ngày đến 40 tuần và 6 ngày (Spong, 2013).

Dựa trên các bằng chứng nghiên cứu, họ chia thành các nhóm riêng biệt (Spong, 2013).

  • Thai đủ tháng sớm: 37 tuần 0 ngày đến 38 tuần 6 ngày
  • Thai đủ tháng: 39 tuần 0 ngày đến 40 tuần 6 ngày
  • Thai quá ngày: 41 tuần đến 41 tuần 6 ngày
  • Thai già tháng: 42 tuần 0 ngày trở đi

Đọc thêm...

Lần cập nhật cuối lúc Thứ năm, 26 Tháng 11 2020 15:47

U nguyên bào nuôi

  • PDF.

Bs Nguyễn Thị Kiều Trinh - 

1.Giới thiệu

Mô tả đầu tiên về bệnh nguyên bào nuôi trong thai kỳ (gestational trophoblastic disease: GTD) là của Hippocrates vào khoảng năm 400 trước Công nguyên. Marchand phát hiện ra mối liên quan của bệnh này với thai kỳ vào năm 1895. Mô tế bào nuôi khỏe mạnh thâm nhập vào nội mạc tử cung, tạo ra một hệ thống mạch máu tử cung phong phú, dẫn đến sự kết nối chặt chẽ giữa thai nhi và mẹ, được gọi là nhau thai. Tuy nhiên, trong bệnh nguyên bào nuôi, các cơ chế điều hòa trở nên rối loạn chức năng, dẫn đến các khối u xâm lấn, mạch máu và di căn.

GTD liên quan đến cả các thực thể lành tính và ác tính bao gồm thai trứng (toàn phần và bán phần), ung thư nguyên bào nuôi, thai trứng xâm lấn, khối u nguyên bào nuôi dạng biểu mô (epithelioid trophoblastic tumor: ETT) và khối u nguyên bào nuôi ở nhau bám (placental site trophoblastic tumor PSTT). Bốn phần cuối cùng được gọi là u nguyên bào nuôi thai kỳ (gestational trophoblastic neoplasia GTN); tất cả đều có thể di căn và có thể gây tử vong nếu không được điều trị.

unguyenbao1

Xem tiếp tại đây

Lần cập nhật cuối lúc Thứ bảy, 14 Tháng 11 2020 17:32

Hội chứng Fitz-Hugh-Curtis: Một chẩn đoán cần xem xét ở phụ nữ trẻ đau hạ sườn phải

  • PDF.

Bs Huỳnh Minh Nhật - 

I. GIỚI THIỆU

Hội chứng Fitz-Hugh-Curtis là tình trạng viêm quanh gan do biến chứng của viêm nhiễm vùng tiểu khung, tổn thương điển hình là dấu “dây đàn vi-ô-lông” - là sự dính của phúc mạc giữa vòm hoành phải và mặt trước bao gan phát hiện qua nội soi ổ bụng.

Về biểu hiện lâm sàng, đau bụng hạ sườn phải do viêm quanh gan dễ bị bỏ sót và chẩn đoán nhầm nhất là trong điều kiện cấp cứu vì các triệu chứng giống với nhiều bệnh khác như viêm túi mật, viêm gan, viêm bể thận, viêm ruột thừa, viêm màng phổi … đặc biệt là trong trường hợp đau hạ sườn phải rõ ràng hơn các triệu chứng vùng tiểu khung. Việc phát hiện và điều trị không kịp thời có thể để lại di chứng như đau mạn tính, tắc ruột do dính, vô sinh khi có viêm vòi trứng…

 HC FHC1

Đọc thêm...

Lần cập nhật cuối lúc Thứ bảy, 07 Tháng 11 2020 12:12

Dị tật Dandy-Walker

  • PDF.

Bs Lê Thanh Hùng - 

Dị tật được hình thành do không tồn tại lỗ Magendie (lỗ giữa) và lỗ Luschka (lỗ bên). Đây là hai lỗ thông thương não thất tư ra bể dịch não tủy quanh thân não. Điều này dẫn đến bất sản thùy nhộng kèm xuất hiện một nang dịch não tủy lớn ở hố sau thông thương với não thât tư dãn lớn.

Dandy1

MRI não bình thường (trái) và dị tật Dandy-walker

Đọc thêm...

Lần cập nhật cuối lúc Chủ nhật, 11 Tháng 10 2020 15:05

Thông khí nhân tạo trong gây mê ở người lớn – Phần 2

  • PDF.

BS Võ Văn Phong - 

8. Thông khí bảo vệ phổi trong gây mê

Thông khí bảo vệ phổi (VT thấp, đặt PEEP) là có lợi cho các bệnh nhân ARDS và tổn thương phổi cấp (acute lung injury-ALI), và trở thành chăm sóc tiêu chuẩn trong ICU.

Thông khí bảo vệ phổi có thể có lợi cho các bệnh nhân không có tổn thương phổi, bao gồm các bệnh nhân có thông khí nhân tạo trong mổ.

Tác động phổi của gây mê toàn thân – Gây mê toàn thân làm giảm dung tích cặn chức năng (Functional residual capacity-FRC), và hậu quả là gây xẹp phổi đến 90% các bệnh nhân. Ngoài ra, xẹp phổi hấp thụ xảy ra trong gây mê toàn thân với nồng độ oxy thở vào cao. Thông khí cơ học đối mặt với xẹp phổi làm biến dạng nhu mô phổi, tạo ra sự căng phế nang, và khiến phổi bị chấn thương thể tích, chấn thương áp lực, và chấn thương sinh học.

Mục tiêu của thông khí bảo vệ phổi trong gây mê là để giảm căng phế nang quá mức và xẹp phổi theo chu kỳ (còn gọi là atelectrauma), đó là những khởi đầu chính của tổn thương phổi liên quan đến máy thở. Xẹp phổi có thể được ngăn ngừa hoặc đảo ngược bằng PEEP hoặc thủ thuật huy động phế nang (recruitment maneuvers), và sự căng phế nang quá mức có thể tránh được với thể tích khí lưu thông thấp và giảm áp lực cao nguyên và/hoặc áp lực đẩy.

Tác động phổi của gây mê toàn thân thường được dung nạp tốt ở những bệnh nhân khỏe mạnh trong thời gian gây mê ngắn. Tuy nhiên, nguy cơ biến chứng phổi sau mổ có thể tăng lên bởi các đặc điểm của bệnh nhân, quy trình phẫu thuật, và kỹ thuật gây mê.

thongkhi

Đọc thêm...

Lần cập nhật cuối lúc Thứ bảy, 10 Tháng 10 2020 09:23

You are here Đào tạo Tập san Y học