• Phone: 0235.3851.429
  • Hotline: 19009095
  • Thông tin:

dieuhanhtructuyen

Tập san Y học

Chẩn đoán và xử trí hội chứng tim ngày nghỉ

  • PDF.

Bs Trần Lâm - 

(HOLIDAY HEART SYNDROME - HHS)

A. Giới thiệu chung về tác hại của rượu bia

Theo Liên đoàn tim mạch thế giới (WHF) [1], trong vài thập niên qua, tỷ lệ mắc các bệnh tim mạch đã tăng gần gấp đôi, và rượu đóng một vai trò quan trọng. Rượu liên quan với ung thư khoang miệng và hầu, thanh quản, thực quản, gan, dạ dày, vú, đại - trực tràng. Nghiên cứu ở một số quốc gia cho thấy, nguy cơ bị đa bệnh tăng gấp 4 lần ở những người uống rượu. Trong năm 2019, thế giới có gần 2,4 triệu ca tử vong do rượu, chiếm 4,3% tổng số ca tử vong toàn cầu. Việc sử dụng rượu cũng có một tác động xã hội đáng kể, liên quan đến tai nạn giao thông, thương tích, mất hạnh phúc gia đình, và là gánh nặng của một quốc gia. Con cái có cha mẹ nghiện rượu cũng có tỷ lệ nghiện rượu cao hơn trong tương lai.

Dựa vào các bằng chứng gần đây, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cho rằng: “Không có mức cồn nào là an toàn cho sức khỏe”. Uống rượu ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe tinh thần và thể chất, liên quan đến chất lượng cuộc sống kém hơn và tình trạng nghèo đói. Ngay cả với một lượng nhỏ, rượu có thể làm tăng nguy cơ ung thư vú ở phụ nữ. Rượu có thể gây nên các rối loạn chức năng nhận thức và vận động nặng hơn ở phụ nữ với mức uống thấp hơn nhiều so với nam giới. Rượu cũng tham gia vào các bệnh nhiễm trùng và không nhiễm trùng khác. Do vậy, trong Chương trình hành động toàn cầu về dự phòng ngừa và kiểm soát các bệnh không lây nhiễm, WHO đã kêu gọi giảm tương đối 10% lượng rượu bia bình quân đầu người từ năm 2013-2030 [1].

hctim6

Đọc thêm...

Lần cập nhật cuối lúc Thứ bảy, 19 Tháng 2 2022 16:46

Tăng sản nội mạc tử cung

  • PDF.

BS Nguyễn Thị Kiều Trinh - 

Tăng sản nội mạc tử cung (NMTC) là tình trạng tăng sinh rối loạn của các tuyến NMTC. Nó là kết quả của sự kích thích estrogen không được áp dụng của mô NMTC với sự thiếu hụt tương đối các tác động cân bằng của progesterone. Sự mất cân bằng nội tiết tố này có thể được nhìn thấy trong một số tình trạng mà nguyên nhân của sự dư thừa estrogen là nội sinh hoặc ngoại sinh.

Sự phát triển không đều của NMTC dẫn đến tỷ lệ tuyến / mô đệm bất thường và thể hiện trong một chuỗi các thay đổi liên tục trong NMTC. Nó liên quan đến các mức độ phức tạp mô bệnh học khác nhau và các đặc điểm không điển hình trong tế bào và nhân. Tăng sản NMTC, nếu không được điều trị, có xu hướng phát triển thành ung thư NMTC (K NMTC). 

tangsan

Đọc thêm...

Lần cập nhật cuối lúc Thứ tư, 16 Tháng 2 2022 20:43

Quản lý đau sau phẫu thuật (p.2)

  • PDF.

(Phần 2)

Bs Hồ Kiến Phát - 

I/Cơ chế tác dụng của các thuốc giảm đau chính

Các phương pháp tiếp cận mới trong điều trị giảm đau sau mổ đã tìm cách tối ưu hoá tỷ lệ lợi ích/ nguy cơ của nhiều thuốc giảm đau và cải thiện kiểm soát đau. Trong khi trước đây giảm đau do bệnh nhân tự kiểm soát là tiêu chuẩn, thì ngày nay nhiều lựa chọn điều trị phối hợp trong chiến lược giảm đau đa mô thức. Vì vậy điều quan trọng là phải hiểu cơ chế tác dụng và dược lý học của các loại thuốc giảm đau chính thường dùng,

dausaupt

Xem tiếp tại đây

Lần cập nhật cuối lúc Chủ nhật, 13 Tháng 2 2022 21:11

Quản lý đau sau phẫu thuật

  • PDF.

(Phần I)

Bs Hồ Kiến Phát - 

I/Tổng quan

Đau là một trải nghiệm phức tạp, và sinh lý bệnh đau mỗi ngày càng được hiểu chính xác hơn. Đau phụ thuộc rõ vào các đặc điểm của bệnh nhân: tuổi tác, bệnh lý đi kèm, phương pháp điều trị kèm cũng như tính cách, niềm tin và trải nghiệm đau trước đó. Vì vậy, bệnh nhân được quyền tự đánh giá tình trạng đau của chính mình. Sau đó mới đến vai trò của người chăm sóc, bác sĩ hoặc điều dưỡng, để biết cách dùng thuốc nào giúp giảm đau tốt nhất cho bệnh nhân. Trong đó, giảm đau đa phương thức hiện nay đang được coi là một trong những điều trị đau tiêu chuẩn.

Đau sau phẫu thuật là một trạng thái khó chịu về cảm giác và cảm xúc, có liên quan đến những tổn thương thực sự hay tiềm tàng của cơ thể. Đau sau mổ là một phản ứng sinh bệnh lý phức tạp và do nhiều nguyên nhân khác nhau, thường biểu hiện trên lâm sàng bằng các dấu hiệu bất thường của hệ thần kinh tự động, tình trạng rối loạn tâm thần, hoặc thay đổi tính nết của bệnh nhân.

quanlydau

Xem tiếp tại đây

Lần cập nhật cuối lúc Thứ năm, 20 Tháng 1 2022 08:59

Tăng huyết áp ở bệnh nhân lọc máu chu kỳ

  • PDF.

BS. CKII. Lê Tự Định - 

GIỚI THIỆU

Ở bệnh nhân bệnh thận giai đoạn cuối (ESRD) được lọc máu chu kỳ, tăng huyết áp thường phổ biến và nhìn chung được kiểm soát kém. Dù tình trạng quá tải thể tích và ứ natri dường như là cơ chế gây bệnh chính của tăng huyết áp ở dân số này, các yếu tố khác như tăng độ cứng động mạch, hoạt hóa hệ thống renin-angiotensin-aldosterone, ngưng thở khi ngủ, hoạt hóa hệ thần kinh giao cảm và sử dụng erythropoietin tái tổ hợp cũng có thể liên quan.

Mối liên hệ giữa tăng huyết áp và nguy cơ bệnh tim mạch đã được ghi nhận rõ ràng trong dân số nói chung nhưng ở bệnh nhân lọc máu, nguy cơ liên quan vẫn chưa được hiểu rõ, và vẫn đưa ra các báo cáo nghịch lý và bất ngờ. Sự hiện diện của ESRD có liên quan đến sự gia tăng gấp lần nguy cơ tử vong do tim mạch, so với nhóm chứng phù hợp về tuổi và giới tính không mắc bệnh thận mạn. Các nghiên cứu dịch tễ học đã chỉ ra rằng huyết áp tâm thu, huyết áp tâm trương cùng với các yếu tố nguy cơ truyền thống của bệnh tim mạch có liên quan đến tổn thương cơ quan bao gồm độ cứng mạch máu và kết cục xấu ở bệnh nhân lọc máu. Thật vậy, tăng và giảm huyết áp tâm thu đều liên quan đến các biến cố bệnh tim mạch và giảm huyết áp tâm trương sau khi tăng huyết áp trước đó cũng liên quan đến các kết cục bất lợi.

THA suythan

Đọc thêm...

Lần cập nhật cuối lúc Chủ nhật, 16 Tháng 1 2022 08:49

You are here Đào tạo Tập san Y học