• Phone: 0235.3851.429
  • Hotline: 19009095
  • Thông tin:

dieuhanhtructuyen

Tập san Y học

CGM (continuous glucose monitoring) - theo dõi đường huyết liên tục

  • PDF.

BS Phan Thị Giao Uyên - 

1. CGM là gì?

Đái tháo đường là một trong những bệnh không lây nhiễm phố biển trên toàn cầu. Bệnh đái tháo đường gây nên nhiều biến chứng nguy hiểm, là nguyên nhân hàng đầu gây bệnh tim mạch, mù lòa, suy thận và cắt cụt chi. Bệnh tiến triển âm thầm, nhiều người đi khám lần đầu khi đã xuất hiện các biến chứng.

Đái tháo đường là một trong những bệnh không lây nhiễm phố biển trên toàn cầu. Bệnh đái tháo đường gây nên nhiều biến chứng nguy hiểm, là nguyên nhân hàng đầu gây bệnh tim mạch, mù lòa, suy thận và cắt cụt chi. Bệnh tiến triển âm thầm, nhiều người đi khám lần đầu khi đã xuất hiện các biến chứng.

Trong quá trình điều trị bệnh đái tháo đường, việc kiểm tra và theo dõi chỉ số đường máu định kỳ là điều vô cùng quan trọng. Có những cách để làm xét nghiệm theo dõi đường máu của bệnh nhân đái tháo đường: lấy máu tĩnh mạch để theo dõi chỉ số đường máu, HbA1C; sử dụng máy thử đường máu mao mạch và hiện nay có thêm máy đo đường máu liên tục. Hệ thống này đã được FDA chấp thuận qua việc kiểm soát mức đường máu ngày và đêm. CGM thu thập thông tin tự động trong thời gian mỗi 5 phút/lần. Kết hợp với kiểm tra đường máu bằng phương pháp lấy máu ngón tay. CGM có thể giúp bạn và bác sỹ điều trị có cái nhìn tổng thể về tình trạng bệnh tiểu đường. Thông qua việc phát hiện xu hướng và mô hình đường huyết. Dữ liệu thu thập được có thể giúp tìm ra các cách tốt hơn để quản lý bệnh.

theodoiduongmau

Đọc thêm...

Lần cập nhật cuối lúc Chủ nhật, 28 Tháng 8 2022 20:45

Chăm sóc bệnh nhân đái tháo đường tại bệnh viện theo hướng dẫn của Hiệp hội đái tháo đường Hoa Kỳ 2022

  • PDF.

Bs. Đặng Thị Quỳnh Chi - 

Trong số các bệnh nhân nhập viện, tăng đường huyết, hạ đường huyết và sự thay đổi dao động của glucose máu có liên quan đến các kết cục bất lợi, bao gồm tử vong. Do đó, việc quản lý cẩn thận bệnh nhân nội trú mắc bệnh đái tháo đường đem lại lợi ích trực tiếp và tức thời. Việc quản lý bệnh đái tháo đường tại bệnh viện được tạo điều kiện bởi việc điều trị tăng glucose máu trước khi nhập viện ở những bệnh nhân có các thủ thuật tự chọn và sự chăm sóc điều trị bệnh nhân đái tháo đường nội trú với việc áp dụng các tiêu chuẩn đã được phát triển và việc cẩn thận cho ra viện để chuẩn bị trước cho công tác quản lý bệnh nhân đái tháo đường ngoại trú. Các bước này có thể rút ngắn thời gian nằm viện và giảm nhu cầu tái khám, cũng như cải thiện kết cục của bệnh nhân.

1. Tiêu chuẩn chăm sóc tại Bệnh viện:

1.1. Thực hiện xét nghiệm HbA1c trên tất cả các bệnh nhân mắc đái tháo đường hoặc nhập viện do tăng glucose máu ( glucose máu > 140 mg/dL[7.8 mmol/L]) nếu không xét nghiệm trong 3 tháng gần đây. B

1.2. Insulin nên được sử dụng theo phác đồ điều trị đã được phê duyệt mà cho phép xác định lại sự điều chỉnh liều Insulin dựa trên sự dao động glucuse máu. B

2. Đơn vị cung cấp dịch vụ chăm sóc đái tháo đường tại Bệnh viện

- Khi chăm sóc bệnh nhân nhập viện mắc đái tháo đường, tham khảo ý kiến bác sĩ chuyên khoa đái tháo đường hoặc nhóm chuyên gia quản lý tăng glucose máu ngay khi có thể. C

chamsocdaiduong

Đọc thêm...

Lần cập nhật cuối lúc Chủ nhật, 28 Tháng 8 2022 20:37

Rối loạn đông máu do chấn thương

  • PDF.

Bs Nguyễn Hoàng Kim Ngân - 

Chấn thương là một nguyên nhân chính gây tử vong trên toàn thế giới, và chảy máu là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu có thể phòng ngừa được. Khoảng 1/4 bệnh nhân bị chấn thương nặng phát triển tình trạng rối loạn đông máu được gọi là rối loạn đông máu do chấn thương (TIC - Trauma-induced coagulopathy), là nguyên nhân gây tử vong trong 30-50% trường hợp. Hiểu biết về sinh lý bệnh của TIC là điều cần thiết để giảm tỷ lệ tử vong do chấn thương .

SINH LÝ BỆNH CỦA TIC

Phản ứng đông máu bình thường bắt đầu khi lớp nội mạc mạch máu bị tổn thương. Điều này hoạt hóa các tiểu cầu bám vào vị trí tổn thương, tạo thành nút tiểu cầu ban đầu và dòng thác đông máu, được khuếch đại bởi các tiểu cầu được hoạt hóa, dẫn đến sự hình thành thrombin, phân cắt fibrinogen thành fibrin. Các monome fibrin liên kết chéo với các tiểu cầu được kết tập, làm ổn định hơn nữa sự hình thành cục máu đông. Ở điều kiện bình thường, quá trình chống đông máu và tiêu sợi huyết hạn chế sự hình thành cục máu đông quá mức để duy trì sự thông thoáng của mạch máu. Hình 1 trong tài liệu bổ sung điện tử mô tả chi tiết mô hình đông máu dựa trên tế bào (ESM Hình.1 S1).

TIC bắt nguồn từ tổn thương mô nghiêm trọng kết hợp với sốc mất máu, dẫn đến không có khả năng hình thành và duy trì các cục máu đông dẫn đến chảy máu quá nhiều và tình trạng sốc tồi tệ hơn và rơi vào một vòng luẩn quẩn. Trong TIC, cơ chế điều hòa cầm máu qua trung gian tế bào bị suy giảm. TIC nội sinh khác với rối loạn đông máu do hồi sức ngoại sinh liên quan đến điều trị, được gây ra do pha loãng các yếu tố đông máu với dịch truyền và các sản phẩm máu. Tuy nhiên, các yếu tố này cũng có thể hiện diện trong TIC.

Tổn thương mô và tế bào nội mô phạm vi rộng làm mất glycocalyx nội mô và tăng biểu hiện yếu tố mô (TF), và cả hai đều hoạt hóa quá trình đông máu (Hình 1 và ESM Hình S1). Các tế bào chết giải phóng các thành phần nội bào, chẳng hạn như DNA không có tế bào, histon và HMGB-1 (high mobility group box protein 1), báo hiệu sự tổn thương mô và do đó được gọi là “các mẫu phân tử liên quan đến tổn thương” (DAMP).

roiloandm

Đọc thêm...

Lần cập nhật cuối lúc Thứ năm, 25 Tháng 8 2022 14:59

Hỗ trợ dinh dưỡng trước phẫu thuật

  • PDF.

Bs Lê Tấn Tịnh - 

Kể từ khi bắt đầu áp dụng phẫu thuật, việc giảm thiểu các biến chứng sau mổ và phục hồi sớm đã là hai trong những trụ cột cơ bản thúc đẩy sự cải tiến của kỹ thuật phẫu thuật và xử trí chu phẫu. Mặc dù có những tiến bộ vượt bậc trong những lĩnh vực này, việc hợp lý hóa điều trị dự phòng bằng kháng sinh và những đổi mới quan trọng khác, phục hồi sau phẫu thuật (đặc biệt ở những bệnh nhân lớn tuổi, bệnh lý ung thư hoặc tiêu hóa hoặc phẫu thuật đầu và cổ) là khó khăn. Điều này có thể được giải thích bởi một số lý do, trong đó, suy dinh dưỡng có vai trò chính. Hỗ trợ dinh dưỡng trước phẫu thuật, bao gồm trong phác đồ ERAS (Phục hồi tăng cường sau phẫu thuật), đã được chứng minh là yếu tố chính và là bước quan trọng để đạt được kết quả phẫu thuật tốt hơn. Bắt đầu với việc đánh giá dinh dưỡng trước phẫu thuật và điều trị trong phẫu thuật tự chọn, chúng ta có thể cải thiện tình trạng dinh dưỡng bằng cách sử dụng chất bổ sung đường uống và công thức điều hòa miễn dịch. Nếu chúng ta bổ sung hỗ trợ dinh dưỡng sớm trong tình huống hậu phẫu, chúng ta có thể giảm đáng kể các biến chứng nhiễm trùng, nhu cầu về đơn vị chăm sóc đặc biệt (ICU) và thời gian nằm viện, chi phí và tỷ lệ tử vong. Trong suốt bài đánh giá này, chúng tôi sẽ xem xét những phát triển mới nhất và các tài liệu hiện có.

dinhuongmo

Đọc thêm...

Lần cập nhật cuối lúc Thứ ba, 16 Tháng 8 2022 17:40

Tổng quan về điều trị đích trong ung thư

  • PDF.

Bs.Phạm Ngọc Na - 

1.Liệu pháp nhắm trúng đích là gì:

Liệu pháp nhắm trúng đích là nền tảng của y học chính xác, là một trong những phương pháp điều trị cơ bản quan trọng trong điều trị đa mô thức ung thư bằng cách nhắm vào sự phát triển, phân chia và lan rộng của tế bào ung thư.Liệu pháp nhắm trúng đích ung thư hoạt động bằng cách tấn công và ngăn chặn các gen hay protein chuyên biệt mà những gene và protein này được tìm thấy ở tế bào ung thư hoặc những tế bào có liên quan đến sự phát triển của khối u.

2.Phân loại liệu pháp nhắm trúng đích

Hiện nay nhiều phương pháp điều trị đích đã được sử dụng trong lâm sàng để điều trị ung thư một cách đặc hiệu, đạt hiệu quả cao và giảm tác dụng phụ. Các phương pháp điều trị đích này gồm: liệu pháp hormone (hormone therapies), các thuốc ức chế dẫn truyền tín hiệu (signal transduction inhibitors), kìm hãm gen (gene expression), cảm ứng chết tế bào theo chương trình (apoptosis inducer), ức chế tăng sinh mạch (angiogenesis inhibitor), liệu pháp miễn dịch (immunotherapies).

Các thuốc điều trị đích ung thư được chia thành hai loại chính là các kháng thể đơn dòng và các chất ức chế phân tử nhỏ. Tên gọi của các thuốc điều trị đích phụ thuộc vào kiểu thuốc và đích tế bào của chúng. Thuốc điều trị đích là các kháng thể đơn dòng thường có đuôi là “-mab” (do bắt nguồn từ chữ kháng thể đơn dòng: “monoclonal antibody”), còn thuốc điều trị đích loại các phân tử nhỏ thường có đuôi là “-ib” (do có bản chất là các chất ức chế protein: protein inhibitor).

dichungthu

Xem tiếp tại đây

Lần cập nhật cuối lúc Thứ hai, 15 Tháng 8 2022 19:27

You are here Đào tạo Tập san Y học