Đái tháo đường type 2: Các khuyến cáo kiểm soát huyết áp

Bs Huỳnh Ngọc Tin - Khoa Nội Thận Nội Tiết

1. Chăm sóc tiêu chuẩn (Standard care)

BP1. Đo huyết áp hàng năm và mỗi lần đến thăm khám nếu thấy huyết áp trên mức mục tiêu (xem ở dưới), hoặc nếu đang điều trị:

          + Dùng máy đo huyết áp thủy ngân hoặc máy đo có giá trị đang hoạt động tốt và bao quấn thích hợp.

          + Đo sau khi ngồi ít nhất 5 phút, với cánh tay ngang vị trí tim, nghe ở thì 1 và 5 của tiếng Korotkoff.

          + Lưu lại tất cả trị số trong thẻ lưu của người bệnh đái tháo đường.

         + Dùng máy đo huyết áp 24 giờ nếu nghi ngờ tăng huyết áp do hội chứng “áo choàng trắng” nhưng điều chỉnh mục tiêu xuống thấp hơn 100/50 mmHg.

thuyetap

 

BP2. Xem xét các nguyên nhân thứ phát của tăng huyết áp nếu có chứng cứ bệnh lý thận, rối loạn điện giải hay các đặc điểm khác.

BP3. Đặt mục tiêu duy trì huyết áp dưới 130/80 mmHg (ở những bệnh nhân có tăng bài tiết albumin niệu).

          Thêm thuốc khác nếu không đạt được mục tiêu với liều thuốc hiện tại đã tối đa, xem lại những sở thích và tín ngưỡng của bệnh nhân và có thể làm tăng rắc rối khi tăng số lượng thuốc lên.

          Chấp nhận rằng ngay cả mức 140/80 mmHg cũng không thể đạt được với 3-5 loại thuốc điều trị tăng huyết áp ở một số bệnh nhân.

          Xem lại để tăng mức huyết áp mục tiêu nếu có nguy cơ đáng kể của hạ huyết áp tư thế và té ngã.

BP4. Khởi đầu với thay đổi lối sống đơn độc cùng với giáo dục bệnh nhân thích hợp trong 3 tháng, mục tiêu là làm giảm năng lượng, muối, rượu ăn vào và giảm ít hoạt động.

ES5. Khởi đầu với thuốc viên hạ huyết áp ở bệnh nhân đái tháo đường không bị biến chứng tăng bài tiết Albumin niệu, dùng bất kỳ loại thuốc nào ngoài thuốc ức chế, chú ý đến giá thành và tăng dần liều dựa trên đáp ứng.

          + Ức chế men chuyển và ức chế thụ thể có ưu điểm hơn các loại thuốc khác trong một số trường hợp nhưng ít hiệu quả hơn ở người có nguồn gốc Châu Phi.

          + Khởi đầu với ức chế beta ở bệnh nhân có đau thắt ngực, thuốc ức chế beta hay ức chế men chuyển ở bệnh nhân có nhồi máu cơ tim trước đó, ức chế men chuyển hay lợi tiểu ở bệnh nhân có suy tim.

          + Cần thận trọng khi phối hợp lợi tiểu thiazide và ức chế beta vì có nguy cơ làm giảm kiểm soát chuyển hóa.

 1.2. Chăm sóc toàn diện (Comprehensive care)

BPC1.  Phần này nhìn chung như phần Chăm sóc tiêu chuẩn nhưng thêm lựa chọn tự theo dõi huyết áp bằng những thiết bị bán tự động có giá trị để cung cấp thêm thông tin và phản hồi việc giáo dục.

 1.3. Chăm sóc tối thiểu (Minimal care)

BPM1. Đo huyết áp và mức mục tiêu như trong phần chăm sóc tiêu chuẩn.

BPM2. Khởi đầu bằng thay đổi lối sống với giáo dục bệnh nhân thích hợp.

BPM3. Khởi đầu thuốc viên hạ huyết áp ở bệnh nhân đái tháo đường không có biến chứng tiểu protein niệu, dùng các loại thuốc lợi tiểu, ức chế beta, ức chế calcium hoặc ức chế men chuyển thương mại có sẵn, tăng số loại thuốc dùng dựa theo tính sẳn có của thuốc ở địa phương.

* Bàn luận: Kiểm soát huyết áp có lẽ là phương pháp có Chi phí- Hiệu quả tốt nhất trong việc phòng ngừa các biến chứng mạch máu ở những bệnh nhân đái tháo đường týp 2. Thay đổi lối sống thường được áp dụng thử trước khi có can thiệp điều trị, nhưng chỉ biện pháp này thôi thì thường không đủ. Do việc điều trị tùy theo từng cá nhân thường đặc biệt không hiệu quả ngay cả khi dùng liều tối đa, kinh nghiệm của việc cần thiết điều trị được nhận thấy trong nghiên cứu của UKPDS được phản ánh trong hướng dẫn khuyến cáo. Tuy nhiên điều này cũng ám chỉ sự cần theo dõi thường xuyên và tăng liều cho đến khi  đạt mục tiêu hay đạt đến giới hạn của hiệu quả điều trị.

(Theo International Diabetes Federation)

 


Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Lần cập nhật cuối lúc Chủ nhật, 15 Tháng 12 2013 22:14