Ung thư buồng trứng (p.4)

Bs CKI Trần Quốc Chiến - Khoa Ung bướu

PHẦN IV

CÁC YẾU TỐ TIÊN LƯỢNG

Các yếu tố tiên lượng có những đặc điểm liên quan với khối u mà những đặc điểm này xác định tập tính sinh học và nguy cơ chết do bệnh; giá trị dự báo của chúng có thể thay đổi trong suốt thời gian điều trị và sau đó. Giai đoạn là yếu tố tiên lượng chủ yếu trong ung thư buồng trứng. Các yếu tố tiên lượng chính trong ung thư buồng trứng giai đoạn sớm (giai đoạn I-IIA)  là giai đoạn FIGO (International Federation of Gynecology and Obstetrics), độ mô học, loại mô học, và tuổi của bệnh nhân. Ung thư buồng trứng được phát hiện sớm ở ít hơn 30% bệnh nhân; trong nhiều trường hợp, thời gian sống thêm 5 năm là tốt, thay đổi từ 51 đến 98%. Tuy nhiên, không may là độ mô học của các khối u buồng trứng được dựa vào các tiêu chuẩn chủ quan và rất khác nhau giữa những người đọc.

ungthubt1

KHÁNG NGUYÊN UNG THƯ 125

Giá trị tiên lượng của nồng độ CA125 trước mổ trong ung thư biểu mô buồng trứng có thể bàn cãi. Hầu hết các khối u xâm lấn không nhất thiết có nồng độ CA125 cao nhất. Mặc dầu nồng độ cao được thấy ở hầu hết các khối u có độ biệt hóa kém, không có sự khác biệt lớn về tỷ lệ phần trăm bệnh nhân có các khối u với  độ mô học thấp và độ mô học cao mà có nồng độ CA125 tăng cao. Điều này gợi ý rằng nồng độ tuyệt đối của CA125 không có liên quan với thể tích của khối u buồng trứng; thêm nữa, sự biểu lộ của CA125 trong mô cho thấy không có sự liên quan với độ mô học khối u, mức bội thể, hoặc hợp phần pha S.

PHÂN TÍCH MỨC BỘI THỂ DNA

Mức bội thể DNA, biểu lộ hàm lượng DNA của nhân tế bào, là một yếu tố tiên lượng độc lập. Tính bội không chuẩn tăng lên theo tuổi, giai đoạn, mô học khác nhau với  dạng thanh dịch và dạng nhầy, và mức độ không điển hình và sự hiện diện của u niêm giả màng bụng. Ở những bệnh nhân ung thư xâm nhập, hầu hết các khối u có tính bội không chuẩn; hầu hết các khối u giáp biên là lưỡng bội. Để thiết lập một mức bội thể của khối u riêng lẽ, cần ít nhất hai mẫu sinh thiết từ khối u đặc. Hiện nay hợp phần pha S không phải là một yếu tố tiên lượng đáng tin cậy. Ở những bệnh nhân giai đoạn I (ung thư buồng trứng giai đoạn sớm), các khối u lưỡng bội có liên quan với thời gian sống thêm cực tốt mà không phụ thuộc vào điều trị bổ trợ. Sống thêm không bệnh 5 năm ở những bệnh nhân có các khối u lưỡng bội là 90%, so với 64% ở những bệnh nhân có các khối u tính bội không chuẩn.

Các yếu tố có liên quan với tiên lượng xấu trong ung thư buồng trứng tiến triển (giai đoạn III hoặc IV) được chia thành hai phân nhóm (được xác định bởi phân tích đa biến trong các thử nghiệm lâm sàng):

Các biến số trước điều trị hệ thống có tính dự báo cho thời gian sống thêm: khối u tồn lưu có đường kính > 1cm, giai đoạn FIGO IV, thể trạng kém, lớn tuổi, khối u không biệt hóa, hiện diện cổ chướng, có 20 hoặc nhiều hơn vị trí của bệnh, mô học tế bào sáng hoặc dạng nhầy, các khối u có tính bội không chỉnh hoặc đa bội, phát triển di truyền đơn dòng trong in vitro, và trung tâm điều trị.

Các biến số tại thời điểm tái phát có tính dự báo thời gian tiến triển: ít hơn 180 ngày kể từ đợt hóa trị cuối cùng, thể trạng kém, mô học dạng nhầy, số lượng lớn các vị trí của bệnh, đáp ứng tốt trước đó với hóa trị so với lúc tiến triển, nồng độ CA125.

Những bệnh nhân có yếu tố nguy cơ thấp với ung thư biểu mô tiến triên xâm nhập là tuổi dưới 40; có các khối u thể bội chỉnh, giai đoạn III, dạng thanh dịch và/hoặc dạng nội mạc tử cung, và độ mô học I; không có các khối u tồn lưu. Những bệnh nhân có nguy cơ cao là tuổi trên 70; có các khối u thể bội không chỉnh, giai đoạn IV, tế bào sáng và/hoặc không phân loại, và độ mô học III; có khối u lớn.

TÌNH TRẠNG BỆNH TỒN LƯU

Thể tích khối u tồn lưu sau mổ có thể phản ánh một cách đơn giản sinh học và bệnh sử tự nhiên của bệnh. Các khối u đã tiến xa hơn thì khó hơn để cắt bỏ và vì vậy có liên quan với tình trạng bệnh tồn lưu lớn hơn. Vì vậy, khối u tiến triển như thế nào trước phẫu thuật giảm khối có lẽ quan trọng hơn tình trạng bệnh còn để lại như thế nào. Những đặc điểm khác- chằng hạn như loại hóa trị, bản chất nhạy với hóa trị của khối u, và sự hiện diện của các biến số sinh học khác- có thể có tầm quan trọng bằng hoặc có khi quan trọng hơn qui mô phẫu thuật. Thực vậy, Heintz và cộng sự đã thấy rằng các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng thực hiện phẫu thuật giảm khối tối ưu thì giống với các yếu tố ảnh hưởng đến thời gian sống thêm không bệnh và sống thêm toàn bộ.

Dữ liệu trong phẫu thuật nhìn lại với ung thư buồng trứng bao gồm chẩn đoán, tiên lượng, và các khía cạnh điều trị. Giả định đầu tiên cho rằng một phẫu thuật nhìn lại âm tính thì có liên quan với thời gian sống thêm trội hơn một cách rõ ràng là không thật, bởi vì hiện nay điều này đã hoàn toàn sáng rõ rằng có ít nhất 30 đến 50% bệnh nhân không có bằng chứng về bệnh học sẽ tái phát. Thêm nữa, những bệnh nhân có các khối u với độ mô học 3 hoặc có tình trạng bệnh có thể nhìn thấy về đại thể đã được cắt bỏ hoàn toàn lúc đầu cũng có nguy cơ cao. Khi đó vấn đề còn lại đó là có hay không việc điều trị thêm nữa sẽ ảnh hưởng đến kết quả ở những bệnh nhân có nguy cơ cao này (khác biệt về thời gian sống thêm).

Một vài nghiên cứu đã cố gắng lượng hóa ảnh hưởng của các yếu tiên lượng trước điều trị đến thời gian sống thêm và xây dựng một bản chỉ số tiên lượng (PI- prognostic index) từ các yếu tố này. Năm đặc điểm trước điều trị cho đến bây giờ được sử dụng trong tính toán chỉ số tiên lượng là thể trạng, giai đoạn FIGO, kích thước khối u tồn lưu, độ mô học, và sự hiện diện của cổ chướng. Các yếu tố tiên lượng đang được nghiên cứu tạo ra được những kết quả triển vọng bao gồm nhuộm miễn dịch p53 của ung thư biểu mô buồng trứng. Người ta đã thấy rằng ở những bệnh nhân có các khối u biểu lộ số lượng quá mức p53 đột biến sẽ có thời gian sống thêm toàn bộ ngắn hơn. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu giống như vậy đã thất bại để cho thấy rằng sự biểu lộ p53 là một yếu tố tiên lượng độc lập. 

Dịch từ: The MD Anderson manual of medical oncology, Second edition

 


Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Lần cập nhật cuối lúc Chủ nhật, 08 Tháng 5 2016 08:28